“Ba mẹ tôi kết hôn năm 1976 và có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã, tuy nhiên không có giấy chứng nhận đăng ký kết hôn để lưu. Ba mẹ tôi có 4 người con. Năm 1984 đến nay, ba tôi chung sống với 1 người phụ nữ khác và có 1 người con. Ba và mẹ tôi chưa thực hiện thủ tục ly hôn. Các tài sản nhà và đất được hình thành từ năm 1983 đến nay đều do mẹ tôi đứng tên. Trong hộ khẩu không có tên của ba tôi. Hiện tại, mẹ tôi có nhu cầu bán nhà và đất đi thì ba tôi không đồng ý và đòi chia. Vậy, yêu cầu của ba tôi có đúng pháp luật không? Tài sản của mẹ tôi bán có cần sự đồng ý của ba tôi hay không? Ba mẹ tôi có được tiến hành ly hôn không? “
Hỏi: Ba mẹ tôi kết hôn năm 1976 và có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã, tuy nhiên không có giấy chứng nhận đăng ký kết hôn để lưu. Ba mẹ tôi có 4 người con. Năm 1984 đến nay, ba tôi chung sống với 1 người phụ nữ khác và có 1 người con. Ba và mẹ tôi chưa thực hiện thủ tục ly hôn. Các tài sản nhà và đất được hình thành từ năm 1983 đến nay đều do mẹ tôi đứng tên. Trong hộ khẩu không có tên của ba tôi. Hiện tại, mẹ tôi có nhu cầu bán nhà và đất đi thì ba tôi không đồng ý và đòi chia. Vậy, yêu cầu của ba tôi có đúng pháp luật không? Tài sản của mẹ tôi bán có cần sự đồng ý của ba tôi hay không? Ba mẹ tôi có được tiến hành ly hôn không?
Đáp: Thực tế cuộc sống xảy ra nhiều trường hợp người vợ hoặc chồng tự ý một mình thực hiện các giao dịch có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng. Ví dụ: vì nhu cầu thiết yếu, cấp bách của cuộc sống, vợ, chồng đi công tác xa, hoặc có thể do mâu thuẫn phát sinh nên người chồng, vợ đã tự mình đưa ra quyết định riêng. Khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại Khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”.
Như vậy, trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản đang có tranh chấp là tài sản riêng của mẹ bạn thì tài sản đó được coi là tài sản chung của vợ chồng.
Mặt khác, như bạn trình bày thì do cha và mẹ bạn chưa tiến hành thủ tục ly hôn nên pháp luật vẫn thừa nhận có tồn tài quan hệ hôn nhân. Quan hệ giữa cha bạn với người phụ nữ khác do không đăng ký kết hôn nên không được pháp luật thừa nhận. Do đó, yêu cầu chia tài sản của cha bạn là hợp pháp và có căn cứ.
Theo phân tích ở trên thì nếu mẹ bạn muốn bán nhà, đất thì cần phải được sự đồng ý của cha bạn (Khoản 2 Điều 35 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định việc định đoạt tài sản chung là bất động sản phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng).
Về quyền yêu cầu ly hôn: theo quy định tại Điều 51 của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì vợ hoặc chồng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Tuy nhiên, để được Tòa án xem xét, giải quyết cho ly hôn thì mẹ bạn phải chứng minh được có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.