Quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế Việt Nam
Hỏi: Quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế Việt Nam
Đáp: Ở Việt Nam, Điều 12 Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của các tổ chức quốc tế tại Việt Nam năm 1993. Cụ thể, viên chức ngoại giao được hưởng quyền miễn trừ xét xử đối với hình sự, dân sự và xử phạt hành chính, thi hành án tại Việt Nam. Trừ những trường hợp họ tham gia với tư cách cá nhân.
Mặc dù ở Việt Nam chưa có quy định về những trường hợp miễn trừ đối với các quốc gia nước ngoài tuy nhiên, việc miễn trừ vẫn được ghi nhận và thực hiện trên cơ sở nguyên tắc: Những cơ quan, tổ chức hay cá nhân nước ngoài thuộc đối tượng hưởng các quyền ưu đãi hay miễn trừ ngoại giao, lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc theo những điều ước có Việt Nam là thành viên thì những vụ việc liên quan sẽ được giải quyết theo con đường ngoại giao.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 100 Bộ luật dân sự năm 2015, đối với những quan hệ dân sự có một bên chủ thể tham gia là các quốc gia, pháp nhân hay cá nhân nước ngoài thì Nhà nước Việt Nam hoặc cơ quan nhà nước của Việt Nam khi xác lập với các chủ thể đó phải chịu trách nhiệm trong những trường hợp sau đây:
Thứ nhất, có nghĩa vụ chịu trách nhiệm đối với những giao dịch mình xác lập trong trường hợp các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có điều khoản quy định về việc từ bỏ quyền miễn trừ.
Thứ hai, trong trường hợp các bên của quan hệ dân sự được xác lập đã có sự thỏa thuận với nhau về việc từ bỏ quyền miễn trừ. Khác với trường hợp trên, quyền miễn trừ của quốc gia quy định trong các Điều ước quốc tế, thì việc từ bỏ quyền miễn trừ quốc gia trong trường hợp này xuất phát từ sự tự do ý chí của chính nhà nước hoặc cơ quan nhà nước Việt Nam khi tham gia vào quan hệ. Chính vì vậy, khi đã từ bỏ quyền miễn trừ thì đương nhiên phải chịu các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ mà mình thiết lập.
Thứ ba, trường hợp chính Việt Nam, cơ quan nhà nước của Việt Nam tự mình từ bỏ quyền miễn trừ của mình khi xác lập giao dịch với các chủ thể đó. Đây là trường hợp Nhà nước, cơ quan nhà nước từ bỏ quyền miễn trừ theo ý chí, theo sự quyết định của chính mình. Thông thường, việc nhà nước, cơ quan nhà nước từ bỏ quyền miễn trừ của mình là nhằm tạo ra cơ chế ngang bằng với các chủ thể nước ngoài đang có quan hệ với họ. Khi nhà nước, cơ quan nhà nước từ bỏ quyền miễn trừ thì họ phải chịu nghĩa vụ trước Nhà nước, pháp nhân, cá nhân nước ngoài mà họ xác lập quan hệ.