Phân tích chế độ đãi ngộ đặc biệt và khác biệt dành cho các thành viên đang phát triển trong khuôn khổ WTO?
Hỏi: Phân tích chế độ đãi ngộ đặc biệt và khác biệt dành cho các thành viên đang phát triển trong khuôn khổ WTO?
Đáp: 1. Về thuế quan
Khi tham gia vào WTO, các nước đang phát triển phải cam kết ràng buộc thuếđối với 100% hàng nông sản và 73% sản phẩm công nghiệp, còn các nước công nghiệpphát triển là 100% và 97%. Ngoài ra dựa trên mức thuế đã ràng buộc, các nước thànhviên phải tiến hành cắt giảm thuế quan. Trong lĩnh vực nông nghiệp, thuế suất đối với cácnông sản sẽ được cắt giảm trung bình 36% ở các nước phát triển (mức giảm tối thiểu mỗidòng thuế không ít hơn 15%) và 24% ở các nước đang phát triển (mức giảm tối thiểu đốivới mỗi dòng thuế không ít hơn 10%). Việc cắt giảm được tiến hành lần lượt trong vòng 6năm đối với các nước phát triển (1995-2000) và 10 năm đối với các nước đang phát triển(1995-2004). Các nước kém phát triển nhất sẽ được hưởng chế độ ưu đãi đặc biệt và cónhững quy định riêng cụ thể
2. Các biện pháp phi thuế
– Các biện pháp hạn chế định lượng
WTO không cho phép dùng hạn ngạch, giấy phép có tính định lượng để hạn chếnhập khẩu nhằm bảo vệ sản xuất trong nước, trừ sản phẩm dệt và may mặc. Tuy nhiên,đối với các nước đang phát triển, WTO yêu cầu các thành viên phát triển phải nâng dần tỷlệ tăng trưởng hạn ngạch hàng dệt và may mặc qua các năm. Đối với sản phẩm nôngnghiệp, các nước có thể dùng hạn ngạch thuế quan. Riêng với các nước đang phát triển,chậm phát triển, WTO cho phép sử dụng các biện pháp hạn chế định lượng như hạnngạch, giấy phép này trong một thời gian nhất định, nhưng thời gian này dài hay ngắnphải thông qua đàm phán chứ không được tuỳ ý áp dụng.
– Trợ cấp xuất khẩu và các chính sách hỗ trợ của Chính phủ
Trợ cấp trong nông nghiệp: Theo nguyên tắc chung của WTO, các thành viên củatổ chức này phải tiến hành cắt giảm trợ cấp xuất khẩu và dần xoá bỏ các biện pháp trợcấp xuất khẩu đối với hàng nông sản. WTO quy định rằng, các thành viên phải cam kếtcắt giảm và tiến tới xoá bỏ tất cả các chính sách hỗ trợ trong nước mà chính phủ nước mình đang duy trì. Nhưng, đối với các nước đang và kém phát triển thì không phải đưavào các cam kết cắt giảm của mình các hỗ trợ nhỏ hơn 10% giá trị sản lượng nông sảnnhận được sự hỗ trợ đó.
Trợ cấp trong công nghiệp: WTO yêu cầu các thành viên của mình phải loại bỏngay các hình thức trợ cấp trong lĩnh vực công nghiệp, nhưng cũng có những ưu tiên chocác nước đang phát triển vì chính sách trợ cấp có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của các nước này. Ngoài trợ cấp xuất khẩu, các thành viên đang phát triểncòn có thể áp dụng trợ cấp khuyến khích sử dụng hàng nội địa trong vòng 5 năm kể từngày Hiệp định WTO có hiệu lực. Riêng đối với các thành viên trong quá trình chuyểnđổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường được tiếp tục duy trìtrợ cấp xuất khẩu và trợ cấp khuyến khích sử dụng hàng nội địa trong vòng 7 năm kể từngày Hiệp định WTO có hiệu lực.
WTO cũng có quy định rằng, các nước đang phát triển vẫn được đối xử ưu đãitrong thương mại cho dù hàng xuất khẩu của họ đang bị điều tra để áp dụng thuế đốikháng. Bất kỳ việc điều tra thuế đối kháng nào áp dụng đối với sản phẩm có xuất xứ từ một thành viên đang phát triển sẽ bị chấm dứt ngay khi nhà chức trách liên quan xác định rằng:
+ Tổng số trợ cấp cho một sản phẩm không vượt quá 2% giá trị của nó (đối vớicác nước thành viên đang phát triển có thu nhập quốc dân bình quân tính trên đầu ngườitrên 1000USD/năm đã xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu trước thời hạn cho phép và với các thànhviên chậm phát triển nhất hoặc các thành viên có thu nhập quốc dân dưới 1000USD/nămthì con số tương ứng sẽ là 3%).
+ Khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp chỉ chiếm dưới 4% tổng nhập khẩusản phẩm tương tự vào thành viên nhập khẩu, trừ trường hợp khối lượng hàng nhập khẩutừ một nhóm nước đang phát triển cùng nhau chiếm tới hơn 9% tổng thị phần nhập khẩusản phẩm tương tự tại thành viên nhập khẩu (mặc dù mỗi nước trong nhóm chỉ chiếm íthơn 4% thị phần nhập khẩu)
– Định giá Hải quan
Theo quy định của WTO, tiêu chuẩn chính để tính giá trị hàng hoá nhập khẩu là căn cứ vào Giá trị giao dịch (Transaction value), chỉ một số ít trường hợp không xác địnhđược giá trị giao dịch thì mới áp dụng cách tính khác. Tuy nhiên, đối với các nước đangphát triển thì WTO cho phép có quyền duy trì hệ thống giá tính thuế tối thiểu hiện hànhtrong một thời gian quá độ thông qua đàm phán về một số ít mặt hàng.
Bên cạnh đó, các nước đang phát triển còn được trợ giúp kỹ thuật trong việc đàotạo nhân lực, soạn thảo và áp dụng các biện pháp mới, tiếp cận thông tin về các phươngpháp định giá hải quan, nghiên cứu tìm giải pháp trong trường hợp các nước này gặp trởngại đến mức có thể ảnh hưởng đến các nhà nhập khẩu và phân phối đơn lẻ.
– Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
WTO quy định các nguyên tắc về việc sử dụng các tiêu chuẩn bắt buộc, các tiêuchuẩn tự nguyện nhằm đảm bảo các tiêu chuẩn đó không tạo ra một rào cản phi thuế quan đối với thương mại hàng hoá giữa các nước thành viên. Tuy nhiên, đối với các nước đangvà chậm phát triển, WTO dành cho họ những ưu đãi nhất định, theo đó, các nước pháttriển cần phải công nhận những khó khăn đặc biệt của các nước đang phát triển trong khixây dựng và áp dụng các quy định kỹ thuật và giúp đỡ họ trong lĩnh vực này. Các nướcđang và chậm phát triển được tư vấn, hỗ trợ trong việc soạn thảo các quy định kỹ thuật,thành lập các cơ quan tiêu chuẩn quốc gia, tham gia các tổ chức tiêu chuẩn quốc tế, hỗ trợcác nhà sản xuất tiếp cận hệ thống đánh giá hợp chuẩn trên lãnh thổ nước mình. Trừ cáctrường hợp khẩn cấp, các nước phát triển phải dành thời gian hợp lý trước khi áp dụngnhững biện pháp mới để các nước đang phát triển điều chỉnh sản phẩm hoặc quy trình sảnxuất. Đồng thời WTO cũng quy định rằng, các nước thành viên sẽ lưu tâm và xem xétđến các điều kiện phát triển kinh tế, thương mại, tài chính của các nước đang phát triểntrong quá trình xây dựng các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật, nhằm không tạo ra những trởngại bất hợp lý đối với hàng xuất khẩu từ các nước đang phát triển. Trong điều kiện côngnghệ và kinh tế xã hội đặc biệt của nước mình, các nước đang phát triển có thể không sửdụng các tiêu chuẩn quốc tế mà được phép áp dụng một số tiêu chuẩn, quy định kỹ thuậtcụ thể nhằm mục đích duy trì các kỹ thuật, quy trình sản xuất trong nước phù hợp vớitrình độ phát triển, nhu cầu tài chính và thương mại của nước mình
3. Các biện pháp tự vệ trong thương mại
WTO quy định các nước thành viên được phép áp dụng các biện pháp tự vệ trongthương mại, theo đó, một nước có thể hạn chế nhập khẩu trong những trường hợp khẩncấp, khi lượng hàng hoá nhập khẩu tăng đột biến, gây ra hoặc đe doạ gây ra những tổnhại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nội địa sản xuất ra các sản phẩm tương tự hoặccác sản phẩm cạnh tranh trực tiếp.
Đối với các nước đang phát triển, WTO cũng dành những ưu đãi trong vấn đề tựvệ. ở một chừng mực nào đó, xuất khẩu của các nước đang phát triển không phải chịuảnh hưởng của các biện pháp tự vệ. Cụ thể là một nước nhập khẩu chỉ có thể sử dụngbiện pháp tự vệ đối với hàng hoá xuất khẩu của một nước đang phát triển nếu nước đang phát triển cung cấp 3% khối lượng nhập khẩu của mặt hàng đó hoặc một nhóm nước đangphát triển cùng nhau chiếm tới hơn 9% tổng khối lượng hàng nhập khẩu của mặt hàng đó(mặc dù mỗi nước chiếm ít hơn 3% khối lượng hàng nhập khẩu).
Ngoài ra, theo quy định của WTO, các thành viên chỉ áp dụng các biện pháp tự vệtrong khoảng thời gian cần thiết để ngăn chặn hay khắc phục những tổn hại nghiêm trọngvà tạo điều kiện điều chỉnh. Khi hết thời gian áp dụng các biện pháp tự vệ chính thức,trong những trường hợp cần thiết, các nước có thể được gia hạn thêm. Thời gian gia hạntối đa không quá 4 năm, nhưng đối với các nước đang phát triển, thời gian gia hạn tối đacó thể lên tới 6 năm.
Sau khi hết thời gian gia hạn, các nước có thể tái áp dụng các biện pháp tự vệ,nhưng việc này chỉ có thể thực hiện sau một khoảng thời gian bằng với thời gian đã ápdụng biện pháp tự vệ trước đó, và thời gian sau khi chấm dứt biện pháp tự vệ lần trướcphải được ít nhất 2 năm. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển, chỉ cần sau mộtkhoảng thời gian bằng nửa thời gian đã áp dụng biện pháp tự vệ trước đó là có thể áp dụng lại.
Ví dụ, nước A đã áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng ô tô trong thời gian 3năm và gia hạn thêm 2 năm nữa, tổng cộng là 5 năm. Nếu nước A là nước công nghiệpphát triển thì phải sau ít nhất 5 năm nữa nước này mới có thể áp dụng lại biện pháp tự vệđối với mặt hàng ô tô. Còn nếu nước A là nước đang phát triển thì chỉ cần sau 2 năm rưỡi nữa là nước này có thể áp dụng lại biện pháp tự vệ đối với mặt hàng này.